TS. Lê Xuân Nghĩa: VinFast, Trường Hải, Hòa Phát... đều đang mở đường, nhưng Việt Nam vẫn cần cú hích để công nghiệp hóa thật sự

Sau gần 40 năm thu hút FDI, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ về xuất khẩu và hội nhập. Nhưng đằng sau những con số tăng trưởng là câu hỏi về nội lực công nghiệp, vai trò doanh nghiệp Việt. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, dù đã có những cái tên tiên phong như VinFast, Hòa Phát, Trường Hải, nhưng Việt Nam vẫn thiếu những chiến lược để hỗ trợ doanh nghiệp Việt đi xa hơn thay vì chỉ dừng ở bước gia công lắp ráp.

TS. Lê Xuân Nghĩa
TS. Lê Xuân Nghĩa
Chuyên gia tài chính ngân hàng
103 bài viết
Thị trường vàng đang bị chi phối bởi các yếu tố chính trị và tâm lý đầu tư hơn là giá trị nội tại. Giá vàng có thể tăng mạnh nhưng cũng có thể giảm nhanh nếu tình hình thay đổi.
Tại: 'Tôi bán 100 chỉ vàng nhẫn lãi trên 300 triệu đồng'

Kể từ dấu mốc 1987 – khi Luật Đầu tư nước ngoài lần đầu tiên ra đời – đến nay, FDI đã trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam. Nhưng bước vào giai đoạn chuyển mình mới, cũng chính dòng vốn này đang bộc lộ những nghịch lý. Tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa thấp, công nghiệp chế tạo yếu, liên kết FDI – doanh nghiệp Việt mờ nhạt....

Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, nếu không thay đổi cách tiếp cận, Việt Nam sẽ mãi loay hoay trong chiếc "vòng kim cô" của mô hình tăng trưởng dựa vào FDI giá rẻ. Theo ông, đã đến lúc dứt khoát chuyển từ "làm tổ đại bàng" sang "làm tổ khổng tước": xây dựng năng lực nội sinh, thu hút người tài, xác định rõ lĩnh vực công nghệ ưu tiên, và biến FDI thành một đối tác chuyển giao.

TS. Lê Xuân Nghĩa: VinFast, Trường Hải, Hòa Phát... đều đang mở đường, nhưng Việt Nam vẫn cần cú hích để công nghiệp hóa thật sự- Ảnh 1.

Từ năm 1987 đến nay, FDI đã gắn liền với hành trình hội nhập của Việt Nam. Nhìn lại gần 40 năm thu hút FDI, đặc biệt từ những cột mốc quan trọng như gia nhập WTO hay ký các FTA thế hệ mới, theo ông, dòng vốn FDI đã đóng vai trò thế nào trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam?

Hội nhập quốc tế của Việt Nam thể hiện ở hai khía cạnh lớn. Thứ nhất là mở cửa thị trường nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu, gắn liền với quá trình tự do hóa giao dịch vãng lai, bao gồm các hoạt động thương mại quốc tế về hàng hóa và dịch vụ.

Khía cạnh thứ hai là tự do hóa đầu tư, tức cho phép dòng vốn trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, phần này được mở cửa muộn hơn thương mại, nên Việt Nam ưu tiên thu hút FDI vào trước, còn đầu tư ra ngoài thì đi theo lộ trình.

Làn sóng FDI chỉ thực sự bùng nổ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Khi đó, chúng ta bắt đầu tự do hóa mạnh hơn các quy định về tài chính, tiền tệ, và chính sách ưu đãi. Trước đó, FDI vẫn có, nhưng hạn chế, phần vì lạm phát cao, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, uy tín đồng tiền Việt Nam còn thấp.

Nhà đầu tư quan tâm nhất là sự ổn định. Nếu hôm nay họ đổi 1 triệu USD được 25 tỷ đồng, nhưng 5 năm sau phải cần tới 35 tỷ để đổi lại thì quá rủi ro. Khi vĩ mô ổn định hơn, dòng vốn mới dám vào.

WTO còn mang lại một thay đổi lớn về chất lượng FDI. Trước đây chủ yếu là liên doanh, thì sau WTO, Việt Nam cho phép doanh nghiệp nước ngoài đầu tư 100% vốn, kể cả trong ngành ngân hàng. Điều đó khiến FDI tăng cả về số lượng, chất lượng lẫn quy mô. Nhiều tập đoàn lớn như Samsung, LG, Intel… bắt đầu đổ bộ vào Việt Nam sau cột mốc này.

FDI không chỉ là nguồn lực đầu tư, mà còn là một "động lực cải cách", buộc Việt Nam phải điều chỉnh luật lệ, chính sách, và thể chế để phù hợp với thông lệ quốc tế.

TS. Lê Xuân Nghĩa: VinFast, Trường Hải, Hòa Phát... đều đang mở đường, nhưng Việt Nam vẫn cần cú hích để công nghiệp hóa thật sự- Ảnh 2.

Bên cạnh những thành tựu nói trên, dưới góc nhìn của ông, liệu còn có điều gì Việt Nam chưa được thực hiện tốt như kỳ vọng trong việc tận dùng dòng vốn này?

Chúng ta cần phải nhìn nhận rằng, tất cả các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam ký, về mặt con số thì có vẻ có lợi, nhưng nếu soi kỹ thì Việt Nam thực sự chỉ giữ lại được một phần rất nhỏ trong toàn bộ chuỗi giá trị.

Chúng ta mở cửa thị trường, ban hành ưu đãi, ký FTA… nhưng bên hưởng lợi nhiều nhất lại chính là các doanh nghiệp FDI. Họ chủ động thúc đẩy các hiệp định vì đó là hành lang pháp lý giúp họ yên tâm mở rộng đầu tư.

Chúng ta cứ hình dung thế này, trong tổng số hơn 400 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2024 thì gần 300 tỷ là của khối FDI, tức là khoảng 70% giá trị xuất khẩu rơi vào tay doanh nghiệp nước ngoài. Còn lại là của doanh nghiệp Việt Nam.

Trong 100 tỷ đó, khoảng 50 tỷ là xuất khẩu nông nghiệp, còn lại 50 tỷ đến từ công nghiệp. Nhưng công nghiệp thì phần lớn cũng chỉ là dệt may, giày da, đồ gỗ, đồ nhựa, những ngành thâm dụng lao động, giá trị gia tăng thấp. Việt Nam gần như chưa có công nghiệp chế tạo đúng nghĩa.

Về tỷ lệ nội địa hóa, dệt may chỉ có 40% là của Việt Nam, còn 60% là nguyên liệu nhập chủ yếu từ Trung Quốc. Giày da thì 50–50. Đồ nhựa và đồ gỗ thì còn thấp hơn, chỉ khoảng 25% giá trị là của Việt Nam, còn lại 75% đều là nhập khẩu.

Ngược lại, nông nghiệp là lĩnh vực có hàm lượng nội địa cao nhất. Trong 50 tỷ USD nông sản xuất khẩu, khoảng 90% là giá trị Việt Nam tạo ra, chỉ 10% là nhập khẩu (phân bón, đầu vào...).

Tính trung bình toàn bộ 100 tỷ USD mà Việt Nam xuất khẩu được thì hàm lượng giá trị thực sự Việt Nam tạo ra chỉ khoảng 60%. Tức là khoảng 60 tỷ USD giá trị gia tăng nội địa trong tổng 400 tỷ USD xuất khẩu toàn nền kinh tế.

Nói cách khác, đóng góp của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực công nghiệp là rất hạn chế, đặc biệt là công nghiệp chế tạo.

TS. Lê Xuân Nghĩa: VinFast, Trường Hải, Hòa Phát... đều đang mở đường, nhưng Việt Nam vẫn cần cú hích để công nghiệp hóa thật sự- Ảnh 3.

Theo ông, đâu là nguyên nhân cốt lõi khiến giá trị gia tăng nội địa thấp đến vậy?

Nguyên nhân khiến giá trị nội địa trong xuất khẩu của Việt Nam còn thấp là do xuất phát điểm là một quốc gia nông nghiệp, nền công nghiệp còn non trẻ. Chương trình công nghiệp hóa đã được đặt ra trong các nghị quyết của Đảng từ năm 1993, nhưng cho đến nay dường như chưa đạt được kết quả như kỳ vọng.

Có ba nguyên nhân chính cản trở quá trình công nghiệp hóa. Thứ nhất là sự phát triển chậm của khoa học – công nghệ. Để nội địa hóa sản phẩm cần có nền tảng công nghệ và thiết bị hiện đại, nhưng điều này vẫn còn hạn chế.

Đến thời điểm này, Việt Nam vẫn chưa hình thành được ngành công nghiệp chế tạo đúng nghĩa, đặc biệt là công nghiệp thượng nguồn. Vingroup là một trong những tập đoàn tiên phong trong lĩnh vực này. Trước đó từng có dự án Gang thép Thái Nguyên, nhưng không thành công. Vingroup hiện là một trong số ít đơn vị sản xuất cơ khí và ô tô với tỷ lệ nội địa hóa dự kiến đến cuối năm nay đạt trên 70%.

Thứ hai là vấn đề về vốn. Công nghiệp hóa đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Với các dự án như VinFast, Vingroup buộc phải vay trong nước một phần và vay quốc tế phần lớn. Tuy nhiên, vay vốn trong nước quy mô lớn là rất khó khăn.

Ngân hàng có thể cho vay vài nghìn tỷ, nhưng với dự án công nghiệp lớn thì cần hàng chục nghìn tỷ đồng. Vay quốc tế không có bảo lãnh của Chính phủ thì lãi suất cao, doanh nghiệp phải chấp nhận áp lực tài chính. Ngoài ra, để được vay quốc tế, dự án còn phải đáp ứng các điều kiện như chuyển sang công nghệ xanh, vì nếu sản xuất xe chạy xăng thì khó tiếp cận nguồn vốn.

Thứ ba là nhân lực. Muốn có công nghệ, ngoài việc phải có tiền để đầu tư vào trang thiết bị thì phải có người làm chủ được công nghệ. Nhưng hiện nay Việt Nam chưa có một chính sách rõ ràng trong việc thu hút và phát triển nhân tài.

Nếu chỉ tập trung thu hút FDI mà không chuẩn bị năng lực để tiếp nhận công nghệ, thì doanh nghiệp trong nước khó có thể cạnh tranh được. Ở Việt Nam, vấn đề công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển cũng là một cản trở lớn trong việc tiếp nhận công nghệ từ khối FDI.

Chúng ta chưa có đủ năng lực về tài chính, công nghệ và nhân lực để học hỏi hoặc nhận chuyển giao từ các tập đoàn lớn. FDI sẽ không chủ động chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp nội địa, nhưng họ cũng không ngăn cản việc mình học hỏi. Vấn đề là doanh nghiệp Việt chưa đủ năng lực để tiếp nhận: muốn học thì phải có thiết bị, có nhân lực, có nơi để thử nghiệm, mà tất cả đều đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn.

Ví dụ, Samsung có thể muốn đặt hàng doanh nghiệp Việt sản xuất linh kiện, nhưng họ không yên tâm về chất lượng nên chỉ giao những phần việc đơn giản như bao bì, đóng hộp. Những phần linh kiện quan trọng, nếu làm sai, sẽ gây rủi ro lớn khi đem ra thị trường.

TS. Lê Xuân Nghĩa: VinFast, Trường Hải, Hòa Phát... đều đang mở đường, nhưng Việt Nam vẫn cần cú hích để công nghiệp hóa thật sự- Ảnh 4.

Vậy ông đánh giá như thế nào về nội lực của khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong so sánh với khối FDI?

Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đều đi lên từ quy mô nhỏ. Những doanh nghiệp lớn thường có nguồn gốc từ khu vực quốc doanh hoặc gắn với hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, khu vực tư nhân chủ yếu phát triển từ lĩnh vực bán lẻ và bất động sản – chứ không phải công nghiệp hay công nghiệp chế biến.

Ngay cả những ngành xuất khẩu như giày da, thực chất cũng chỉ tận dụng được lợi thế lao động giá rẻ, chưa tạo ra được năng lực cạnh tranh cốt lõi về công nghệ hay sản xuất. Do đó, nếu xét về năng lực nội tại, các doanh nghiệp Việt chủ yếu có vị thế mạnh ở ba lĩnh vực: bất động sản, du lịch và ngân hàng. Đây cũng là những lĩnh vực mà doanh nghiệp nước ngoài ít đầu tư vào – hoặc bị giới hạn về pháp lý – nên doanh nghiệp Việt có điều kiện nổi bật hơn.

Trong đó, ngành ngân hàng được xem là điểm mạnh rõ rệt nhất. Hệ thống tài chính Việt Nam hiện có các ngân hàng quốc doanh lớn, cùng khoảng một chục ngân hàng tư nhân có quy mô đáng kể. Nếu so sánh với quốc tế, các ngân hàng nhỏ nhất tại Việt Nam vẫn có tổng vốn chủ sở hữu khoảong 150-200 triệu USD, lớn hơn nhiều so với các ngân hàng nhỏ tại Mỹ, vốn chỉ khoảng 15 triệu USD. Còn ngân hàng tư nhân lớn nhất Việt Nam đã đạt quy mô vốn lên tới hơn 1 tỷ USD.

Đó là những mảng mà doanh nghiệp Việt đã hình thành sức mạnh tương đối vững chắc. Còn đối với lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo, đến nay vẫn rất ít doanh nghiệp Việt xây dựng được chiến lược bài bản.

TS. Lê Xuân Nghĩa: VinFast, Trường Hải, Hòa Phát... đều đang mở đường, nhưng Việt Nam vẫn cần cú hích để công nghiệp hóa thật sự- Ảnh 5.

Ông nhìn nhận thế nào về những hệ lụy tiềm ẩn khi Việt Nam tiếp tục duy trì chiến lược thu hút FDI dựa vào nhân công giá rẻ?

Tổng  Bí thư từng lưu ý rằng, không thể chỉ nhìn vào con số xuất khẩu cao để đánh giá thành công. Ví dụ, nhiều chuyên gia từng ca ngợi rằng Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu điện tử đứng đầu khu vực, nhưng thực chất, đây chủ yếu là thành quả của khối FDI. Giá trị Việt Nam thực sự tạo ra không hề lớn.

Nếu tiếp tục duy trì chiến lược thu hút FDI như hiện nay, chúng ta có thể phải đối mặt với ba hệ lụy lớn.

Thứ nhất, FDI có thể "bào mòn" sức sống của doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là những doanh nghiệp đang bắt đầu phát triển trong cùng lĩnh vực. Trong ngành ô tô chẳng hạn, khó có nhà đầu tư nước ngoài nào muốn một đối thủ nội địa như ông Phạm Nhật Vượng "sống khỏe" để cạnh tranh. Trên cả thị trường quốc tế và thị trường nội địa, cạnh tranh luôn là một cuộc chiến một mất một còn.

Chúng ta đã chứng kiến làn sóng M&A thâu tóm doanh nghiệp Việt ở các ngành như chế biến nông sản, sản xuất thực phẩm, nước giải khát, bia… Ngay cả thương mại điện tử cũng không còn nhiều "đất" cho doanh nghiệp Việt. Và nếu thương mại đã nằm trong tay các nền tảng nước ngoài, thì hàng hóa Việt Nam khó có cơ hội xuất hiện trên kệ, chứ chưa nói đến việc phát triển công nghiệp nội địa.

Thứ hai, hiệu ứng tạo việc làm của FDI cũng không thực sự bền vững. Nhiều nước như Philippines không dựa vào FDI, mà chủ động đào tạo nguồn lao động chất lượng để đưa ra nước ngoài làm việc. Thu nhập bình quân của lao động xuất khẩu Philippines cao gấp 3–4 lần so với lao động trong các khu công nghiệp FDI tại Việt Nam.

Mỗi năm, Philippines thu về khoảng 40 tỷ USD từ nguồn kiều hối – chủ yếu từ tiền lương của lao động xuất khẩu. Trong khi đó, con số này ở Việt Nam mới chỉ đạt dưới 3 tỷ USD. Xét về hiệu quả tổng thể, ngay cả mục tiêu tạo việc làm cũng chưa chắc Việt Nam đã làm tốt hơn Philippines.

Thứ ba, chính sách ưu đãi quá mức cho FDI đang tạo ra sự bất bình đẳng với doanh nghiệp trong nước. Các tập đoàn lớn nước ngoài vốn đã mạnh về công nghệ, tài chính, giờ lại được hưởng ưu đãi vượt trội, khiến doanh nghiệp nội địa "nản lòng". Họ buộc phải né sang các lĩnh vực ít bị cạnh tranh như bất động sản, du lịch…

Dẫu vậy, vẫn có một số doanh nghiệp tiên phong dấn thân vào công nghiệp, dù mới chỉ ở bước lắp ráp như VinFast, Trường Hải, Hòa Phát… Nhưng nếu được hỗ trợ đúng hướng, Việt Nam có thể từng bước tăng tỷ lệ nội địa hóa và tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu.

TS. Lê Xuân Nghĩa: VinFast, Trường Hải, Hòa Phát... đều đang mở đường, nhưng Việt Nam vẫn cần cú hích để công nghiệp hóa thật sự- Ảnh 6.

Vậy Việt Nam cần thay đổi chiến lược thu hút FDI như thế nào để chuyển từ "số lượng" sang "chất lượng"?

Thứ nhất, cần chủ động lựa chọn lĩnh vực đầu tư. Chúng ta phải xác định rõ chiến lược phát triển khoa học – công nghệ trong tương lai, từ đó định hướng thu hút FDI vào những ngành mà Việt Nam muốn học hỏi, phát triển, như công nghệ chip, AI, công nghệ sinh học, lượng tử hay nano. Phải mời gọi đúng những nhà đầu tư có thể mang lại giá trị học tập và chuyển giao, thay vì chỉ tập trung vào lĩnh vực thâm dụng lao động.

Thứ hai, cần có chính sách hỗ trợ quá trình học tập và tiếp nhận công nghệ. Điều này đòi hỏi sự phối hợp giữa doanh nghiệp FDI với các trường đại học, viện nghiên cứu trong nước, đồng thời cần có đầu tư từ phía Nhà nước để xây dựng năng lực nghiên cứu, hấp thụ. Chính phủ cần chủ động đóng vai trò "cầu nối" giữa khối FDI và hệ sinh thái khoa học công nghệ trong nước.

Việt Nam muốn phát triển công nghiệp thì trước hết phải thu hút được nhân tài. Chúng ta phải biết "làm tổ cho khổng tước" chứ không phải "làm tổ cho đại bàng". "Làm tổ cho đại bàng" nghĩa là tập trung thu hút các doanh nghiệp FDI lớn. Họ vào thị trường với đầy đủ mô hình vận hành, cạnh tranh mạnh mẽ với doanh nghiệp trong nước, rồi rời đi khi không còn lợi thế.

Trong khi đó, ở Trung Quốc, họ xây dựng môi trường "làm tổ khổng tước" bằng cách thu hút người tài trong nước, kiều bào và cả chuyên gia quốc tế, đưa họ về giảng dạy, nghiên cứu tại các trường đại học, viện nghiên cứu, từ đó tạo ra những sản phẩm khoa học – công nghệ mới mang tầm toàn cầu. Trong một thời gian ngắn, họ đã vượt lên dẫn đầu về số lượng phát minh khoa học và sở hữu nhiều trường đại học hàng đầu trong lĩnh vực kỹ thuật.

Thứ ba, tận dụng chính doanh nghiệp FDI như một nguồn lực đào tạo. Các kỹ sư Việt Nam khi làm việc tại các công ty nước ngoài cần được nâng cao trình độ qua trải nghiệm thực tiễn, hoặc được đào tạo chuyên sâu – trực tiếp tại công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc qua hình thức trực tuyến. Trong bối cảnh đội ngũ giảng dạy công nghệ còn thiếu, chính các tập đoàn FDI có thể trở thành "người thầy" hiệu quả nhất nếu Việt Nam biết cách khai thác.

TS. Lê Xuân Nghĩa: VinFast, Trường Hải, Hòa Phát... đều đang mở đường, nhưng Việt Nam vẫn cần cú hích để công nghiệp hóa thật sự- Ảnh 7.

Theo ông, Việt Nam có thể rút ra bài học gì từ kinh nghiệm thu hút FDI của các nước trong khu vực như Thái Lan hay Malaysia?

Nếu nói về chiến lược thu hút FDI, cả Malaysia và Việt Nam có một điểm chung đó là "mở toang" cánh cửa thị trường. Doanh nghiệp nước ngoài có thể vào – ra, đầu tư – rút vốn tùy ý. Không có điều kiện ràng buộc đủ mạnh, cũng không có chiến lược rõ ràng để buộc họ gắn bó lâu dài, hoặc chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp nội địa.

Hệ quả là gì? Nhìn lại các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Indonesia hay Philippines – vào những năm 1960, họ đều giàu hơn Hàn Quốc và Trung Quốc. Ví dụ, GDP bình quân đầu người của Philippines khi đó là 120 USD, Indonesia là gần 200 USD, còn Hàn Quốc chỉ khoảng 60 USD. Nhưng đến nay, khoảng cách đã bị đảo ngược hoàn toàn. Hàn Quốc hiện có GDP bình quân đầu người gấp 4–5 lần những quốc gia này.

Việt Nam cũng đang đi theo quỹ đạo tương tự. Giờ đây, khi đã nhìn thấy những hạn chế của mô hình tăng trưởng dựa vào FDI, câu hỏi đặt ra là: Liệu chúng ta có kịp điều chỉnh?

Muốn làm được, phải dám thay đổi. Cần chuyển hướng chiến lược thay vì tiếp tục phát triển công nghiệp truyền thống. Hãy tập trung vào những lĩnh vực công nghệ mới như AI, công nghệ xanh, công nghệ số… Ngay cả thu hút FDI cũng phải định hướng lại theo hướng này.

Hiện tại, Ban chỉ đạo Nghị quyết 57 đang xây dựng chiến lược phát triển khoa học – công nghệ mới. Hy vọng lần này sẽ đi đúng hướng. Chúng ta không cần tham vọng như Trung Quốc – cạnh tranh và vượt Mỹ. Nhưng ít nhất cũng phải làm chủ một vài công nghệ quan trọng. Một đất nước 100 triệu dân mà không có nền khoa học dẫn dắt thì khó có thể nói đến tự lực, tự cường.

TS. Lê Xuân Nghĩa: VinFast, Trường Hải, Hòa Phát... đều đang mở đường, nhưng Việt Nam vẫn cần cú hích để công nghiệp hóa thật sự- Ảnh 8.

Xin cảm ơn ông!

Bài:
Quỳnh Anh
Ảnh:
Ngọc Đẹp
Thiết kế:
Hải An

Link nội dung: https://www.doanhnhanvatieudung.com/ts-le-xuan-nghia-vinfast-truong-hai-hoa-phat-deu-dang-mo-duong-nhung-viet-nam-van-can-cu-hich-de-cong-nghiep-hoa-that-su-a141760.html