Tại lễ hưởng ứng Ngày Thế giới vì trẻ sinh non 17/11, TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức, Thứ trưởng Bộ Y tế, cho biết những năm qua Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ quan trọng trong giảm tử vong trẻ em. Tỷ suất tử vong trẻ dưới 5 tuổi giảm từ 22,1‰ năm 2015 xuống còn 16,9‰ năm 2024; tử vong trẻ dưới 1 tuổi từ 14,7‰ xuống 11,3‰. Tử vong trẻ sơ sinh cũng hạ từ 12‰ xuống còn 9,6‰.
Theo thống kê toàn cầu, cứ 10 trẻ sinh ra thì có 1 trẻ sinh non. Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này. Sinh non và trẻ nhẹ cân chiếm tới 19% mô hình bệnh tật sơ sinh và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong.
Các nguyên nhân chính dẫn đến tử vong sơ sinh gồm: sinh non/thấp cân, ngạt, chấn thương khi sinh, dị tật bẩm sinh và nhiễm khuẩn. Trong đó, sinh non/thấp cân chiếm 25% nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa qua các biện pháp đơn giản: khám thai định kỳ, dinh dưỡng đầy đủ, lao động luyện tập phù hợp, cho trẻ bú sớm – bú mẹ hoàn toàn, chăm sóc Kangaroo…

TS.BSCKII Nguyễn Tri Thức, Thứ trưởng Bộ Y tế.
Nhiều năm trở lại đây, chuyên ngành sơ sinh Việt Nam đạt bước tiến vượt bậc. Các bác sĩ đã cứu sống và nuôi dưỡng thành công nhiều trẻ cực non dưới 500 g – điều từng được coi là bất khả thi. Những em bé nhỏ bé ấy sau này phát triển bình thường, đi học như bao trẻ khác. Mỗi nụ cười con trẻ hay giọt nước mắt hạnh phúc của gia đình đều là động lực để đội ngũ y tế tiếp tục cống hiến.
Tuy vậy, Thứ trưởng Nguyễn Tri Thức nhìn nhận ba thách thức lớn: sự chênh lệch các chỉ số sức khỏe bà mẹ – trẻ em giữa các vùng còn rất cao, lên tới 2–3 lần so với thành thị; tốc độ giảm tử vong sơ sinh chậm hơn nhiều so với nhóm dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi; và khoảng cách giữa Việt Nam và các nước phát triển như Nhật, Pháp, Đan Mạch vẫn còn xa khi tử vong trẻ dưới 1 tuổi ở họ chỉ 2–3‰.
Tại sự kiện, nhiều thông điệp kêu gọi được đưa ra: “Khám thai đúng lịch để giảm nguy cơ sinh non”, “Da kề da – Kangaroo giúp trẻ sinh non phát triển tốt hơn”, “Mỗi hành động nhỏ vì trẻ sinh non tạo nên thay đổi lớn”…
Nguyên nhân gián tiếp của hơn 50% ca tử vong sơ sinh toàn cầu
TS.BS Trần Đăng Khoa, Phó Cục trưởng Cục Bà mẹ – Trẻ em, cho biết sinh non là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp của hơn 50% số ca tử vong sơ sinh toàn cầu. Tại Việt Nam, tỉ lệ sinh non khoảng 8,5%–10% tổng số ca sinh và chiếm 25% tử vong sơ sinh.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, sinh non được phân loại theo tuổi thai và cân nặng: nhóm nhẹ cân (1500–<2500 g), rất nhẹ cân (1000–<1500 g) và cực nhẹ cân (<1000 g). Khoảng 85% trẻ sinh non có tuổi thai từ 32 tuần trở lên và việc chăm sóc nhóm này không đòi hỏi kỹ thuật quá phức tạp. Đáng chú ý, khoảng 75% ca tử vong do sinh non có thể phòng ngừa bằng các biện pháp chi phí thấp, hiệu quả cao.
Trẻ sinh non có nguy cơ cao gặp vấn đề sức khỏe ở nhiều cơ quan: hô hấp, thần kinh, mắt, tuần hoàn… Mức độ biến chứng và nguy cơ tử vong tỉ lệ nghịch với tuổi thai và cân nặng khi sinh.

Lễ hưởng ứng Ngày Thế giới vì trẻ sinh non.
Hệ thống chăm sóc trẻ sinh non gồm nhiều bước quan trọng:
Chăm sóc trước sinh: Phối hợp chặt chẽ giữa Sản và Nhi; hội chẩn sớm khi mẹ có nguy cơ sinh non; tư vấn nguy cơ và tiên lượng sau sinh. Mẹ có thể được chỉ định corticoid (24–34 tuần), magnesium sulfate (dưới 32 tuần) để phòng bại não, kháng sinh khi vỡ ối sớm hoặc nhiễm liên cầu B. Những cơ sở không đủ năng lực cần chuyển sản phụ lên tuyến cao kịp thời.
Chăm sóc trong sinh: Trẻ được lau khô, da kề da, kẹp rốn muộn, cho bú sớm và thực hành Kangaroo ngay sau sinh. Trường hợp trẻ không thở, kíp trực thực hiện hồi sức theo quy trình.
Chăm sóc sau sinh: Mục tiêu chính: ổn định thân nhiệt – hô hấp – tuần hoàn, dinh dưỡng đầy đủ, hạn chế nhiễm trùng và điều trị bệnh kèm theo. Nhiệt độ phòng cần giữ 25–28°C; trẻ càng non càng cần nhiệt độ 28–30°C. Có thể dùng lồng ấp, giường sưởi, tấm nilon tăng ấm.
Trẻ dưới 37 tuần có suy hô hấp cần hỗ trợ CPAP và surfactant khi chỉ định. Kẽm – sắt bổ sung cho trẻ dưới 34 tuần hoặc <1500 g. Sữa mẹ là nguồn nuôi dưỡng tối ưu; cần cho bú hoặc ăn thìa, cốc càng sớm càng tốt. Việc cách ly mẹ – con làm tăng nguy cơ trẻ không được tiếp cận sữa non. Phòng nhiễm khuẩn bằng tuân thủ vô trùng, hạn chế can thiệp và dùng kháng sinh hợp lý.
Một số bệnh lý cần theo dõi sát: vàng da tăng bilirubin, còn ống động mạch, thiếu máu, xuất huyết não – màng não, bệnh lý võng mạc trẻ sinh non…
Theo dõi dài hạn là yêu cầu bắt buộc vì trẻ sinh non có nguy cơ nhập viện lại cao gấp 3–4 lần. Những trẻ cực non, phải nằm hồi sức dài ngày, gần 50% tái nhập viện trong 2 năm đầu. Trẻ cần được tái khám 1–2 tuần/lần đến 40 tuần hiệu chỉnh, sau đó theo lịch 1 tháng, rồi 2–6 tháng/lần tới 24 tháng. Phát triển tâm thần – vận động được đánh giá tại các mốc 1, 3, 6, 9, 12, 18 và 24 tháng.
Việc theo dõi định kỳ giúp phát hiện sớm bất thường để can thiệp kịp thời, đảm bảo cho trẻ sinh non có một khởi đầu vững chắc và tương lai khỏe mạnh.