
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Cục Hải quan, nhập khẩu than của Việt Nam trong tháng 9 đạt gần 4 triệu tấn với trị giá hơn 457 triệu USD.
Tính trong 9 tháng đầu năm, nước ta đã nhập khẩu hơn 50 triệu tấn than, trị giá 5,2 tỷ USD, tăng nhẹ về lượng nhưng giảm 16% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024, do giá nhập khẩu trung bình giảm hơn 20%.
Việc giá giảm nhưng lượng nhập tăng cho thấy nhu cầu tiêu thụ than trong nước vẫn cao, đặc biệt trong bối cảnh nhiệt điện vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống năng lượng quốc gia.
Indonesia đang là nhà cung cấp than lớn nhất của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm nay, với hơn 19 triệu tấn, trị giá hơn 1,6 tỷ USD, giảm cả lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Giá bình quân đạt 82 USD/tấn, thấp hơn mặt bằng chung.
Úc là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai, cung cấp cho Việt Nam hơn 16 triệu tấn, trị giá hơn 2 tỷ USD, tăng 21% về lượng và giảm 5% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Giá nhập khẩu bình quân giảm hơn 21%.
Trong số các thị trường, Nga đang là nhà cung cấp lớn thứ 3 cho nước ta trong 9 tháng đầu năm với gần 5 triệu tấn, trị giá hơn 644 triệu USD, tăng 8% về lượng nhưng giảm 19% về trị giá so với cùng kỳ. Nguyên nhân khiến kim ngạch giảm là do giá nhập khẩu bình quân giảm gần 26%, tương đương 129 USD/tấn.

Việt Nam là một trong 5 nền kinh tế có mức tiêu thụ than đá cao nhất ở Đông Nam Á. Việt Nam phải nhập khẩu than dù là nước sản xuất mặt hàng này lâu đời là do nguồn cung trong nước không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng.
Mặt khác, do trữ lượng dễ khai thác trong nước đang dần cạn kiệt, nhiều mỏ buộc phải đào sâu hơn, làm tăng chi phí và giảm hiệu quả. Trong khi đó, nhập khẩu than giá rẻ giúp doanh nghiệp linh hoạt về nguồn cung, đồng thời tiết kiệm chi phí sản xuất.
Hiện than nhập khẩu sẽ bị áp dụng mức thuế suất thông thường (MFN) khoảng 3-5%. Mức thuế MFN cụ thể phụ thuộc vào loại than và mã hàng tương ứng.
Nhu cầu nhập khẩu các nguồn năng lượng sơ cấp của Việt Nam đang tăng lên rất nhanh, việc mở rộng, tăng cường hợp tác với thị trường năng lượng lớn như Nga sẽ đóng vai trò quan trọng và có tiềm năng rất lớn.
Theo chiến lược năng lượng của Nga giai đoạn đến 2035, có sự chuyển dịch lớn theo hướng có lợi cho việc xuất khẩu các nguồn năng lượng sơ cấp từ Nga sang các nước vùng châu Á - Thái bình Dương, trong đó có Việt Nam.
Cụ thể là các cơ sở khai thác than, dầu mỏ và khí đốt của Nga sẽ dịch chuyển cơ bản từ phía Tây Sibiria về phía Đông Sibiria và vùng Viễn Đông - nơi có cảng biển Vladivostoc đi các tuyến phía Nam của Nga. Cùng với đó, sản lượng dầu mỏ và condensate của Nga vùng phía Tây Sibiria sẽ giảm 5%, trong khi vùng phía Đông Sibiria tăng 15% so với năm 2018.
Đặc biệt là trọng tâm về địa lý xuất khẩu năng lượng của Nga đang chuyển dần từ khu vực Đông Âu sang khu vực châu Á - Thái bình Dương. Trong đó, tỷ trọng than đá được xuất khẩu từ vùng Đông Sibiria sẽ tăng từ 17% (2018) lên 25% (2035).
Năm nay, Việt Nam dự kiến sản xuất khoảng 37 triệu tấn than sạch, trong khi nhu cầu tiêu thụ lên tới 50 triệu tấn, chủ yếu phục vụ các nhà máy nhiệt điện. Mặc dù có xu hướng chuyển sang năng lượng tái tạo, than vẫn đóng vai trò chủ lực trong cơ cấu năng lượng quốc gia đến năm 2030.